| 
         
            
        
        
           TỦ SÁCH PHẬT HỌC
        
        
        
          
        
           THẬP 
          BÁT A LA HÁN  
          Tác Giả: Lâm Thế Mẫn 
   Việt Dịch: Thích Đạo Luận
        
        
           --o0o--
        
        
          -              
          11- LA-HỖ-LA
 
          -  
 
          
          
          -  
 
          - Tôn giả La-hỗ-la 
          chính là La-hầu-la, con của thái tử Tất-đạt-đa. Ngài là vị La-hán thứ 
          mười một trong mười sáu vị La-hán. Hiện tại, ngài đang cùng một ngàn 
          một trăm đệ tử trú tại Tất-lợi-dương-cù châu. Trong “Thập đại đệ tử 
          Phật”, ngài được xưng tán là vị Mật hạnh đệ nhất.
 
          -            
          Về cuộc đời Ngài, chúng tôi đã giới thiệu rất nhiều trong quyển “Thập 
          đại đệ tử Phật” của Từ ân Phật giáo nhi đồng tùng thư, ở đây 
          chỉ nói thêm vài mẫu chuyện thú vị khác.
 
          - Ba chữ “La-hầu-la” 
          hán dịch là Phú Chướng. Vì sao đức Phật đặt cho ngài tên này? Câu 
          chuyện được tương truyền:
 
          - Khi chưa ra đời, 
          ngài ở trong bụng vương phi Da-du-đà-la suốt sáu năm. Thông thường, 
          trẻ con ở trong bụng mẹ lâu nhất cũng chỉ có mười tháng, thế mà ngài 
          lại ở đến sáu năm, thật kỳ lạ! Nguyên nhân là vì sao? Chuyện kể rằng 
          vì tiền kiếp của ngài lúc còn là một đứa trẻ ngây thơ chưa biết gì, có 
          lần nghịch ngợm lấy đá và bùn lấp một cái hang chuột khiến lũ chuột 
          trong hang khốn đốn sáu ngày không ăn uống gì cả. Do đó, đời này ngài 
          mắc quả báo ở trong bụng mẹ sáu năm.
 
          - Khi ngài lên chín 
          tuổi, đức Phật sai Tôn giả Mục-kiền-liên, vị đại đệ tử thần thông đệ 
          nhất, về vương cung dẫn ngài đến sống bên mình; rồi bảo Tôn giả 
          Xá-lợi-phất thế độ cho ngài xuất gia. Vì vậy, trong sử Phật giáo, ngài 
          là vị tiểu Sa-di đầu tiên.
 
          - Thời làm Sa-di, vì 
          nghĩ mình là thái tử một nước nên ban đầu ngài chưa thoát khỏi tập 
          quán xấu của thời quí tộc, đã bướng bỉnh lại còn hay gây sự phá rối, 
          không chịu dụng tâm tinh tấn tu hành đàng hoàng.
 
          - Một hôm, đức Phật 
          không chịu được bèn gọi ngài đến và kể cho ngài nghe câu chuyện:
 
          - - Thuở quá khứ, có 
          một vị vua nuôi một con voi dũng mãnh thiện chiến. Mỗi lần giao chiến 
          với kẻ địch không lần nào nó không đánh thắng.
 
          - Vua rất thương mến 
          voi nên mặc cho toàn thân nó giáp sắt rất dày, tai, chân cũng bịt sắt, 
          nhưng riêng vòi thì không. Vòi của nó là phần mềm nhất toàn thân, nếu 
          không cẩn thận để bị trúng tên hay bị chém thì sẽ tử vong. Vì thế, để 
          bảo vệ mạng sống mỗi lần tác chiến voi đều đặc biệt chú ý đến vòi.
 
          - - Này La-hầu-la, 
          con cũng nên bắt chước như con voi bảo vệ cái vòi vậy, phải hết sức 
          thận trọng trong lời nói, việc làm. Con thấy đó, đời trước con nhỏ dại 
          nghịch ngợm lấp hang chuột mà bị mắc quả báo ở trong bụng mẹ sáu năm 
          không thấy ánh sáng. Nếu như bây giờ con cũng như vậy, suốt ngày chỉ 
          biết ăn chơi lêu lỏng quậy phá làm nhiều việc xấu, không chịu nỗ lực 
          tinh tấn tu tập, con không sợ hậu quả sẽ là một chuỗi ngày dài bất 
          hạnh sao?!
 
          - La-hầu-la nghe lời 
          Phật dạy tỉnh ngộ. Từ đó, ngài hạ thủ công phu dụng công tu tập không 
          dám biếng nhác nữa. Phát tâm dụng công tu tập, La-hầu-la thể hiện trọn 
          vẹn những mỹ đức khiêm cung nhẫn nhục, không thích tranh cãi hơn thua 
          nên phòng của ngài thường bị người khác chiếm ở; lắm lúc ngài phải vào 
          nhà xí ngủ qua đêm. Một hôm, vì truyền đạo ngài bị tín đồ ngoại đạo 
          đánh vỡ đầu. Thế nhưng, ngài vẫn không một lời than oán, lặng lẽ đến 
          bờ suối rửa sạch máu dơ rồi dùng khăn băng vết thương lại.
 
          - Có lần, có một tín 
          chủ cúng cho ngài một tịnh thất  làm nơi tu tập tọa thiền, giảng 
          kinh thuyết pháp. Nhưng chẳng bao lâu tín chủ đó đòi lại rồi đem cúng 
          cho người khác, ngài vẫn bình thản dọn ra khỏi phòng không chút giận 
          hờn. Như thế đủ chứng minh hạnh nhẫn nhục của ngài thật sự là nhẫn 
          nhục Ba-la-mật.
 
          - Năm hai mươi tuổi, 
          ngài chứng quả A-la-hán. Tuy đã chứng quả nhưng sống trong chúng, ngài 
          không thích phô trương mà chỉ lặng lẽ tu tập, lặng lẽ hoằng pháp nên 
          được đức Phật Ðặc biệt chọn vào hàng mười sáu vị La-hán lưu lại nhân 
          gian.
 
          - Mấy trăm năm sau, 
          vua Thiết-thưởng-ca nước Câu-thi-na-la không tin Phật pháp đến độ đập 
          phá chùa chiền, thiêu kinh hủy tượng, số người xuất gia ngày càng giảm 
          thiểu.
 
          - Hôm nọ, có một vị 
          Hòa thượng già chống gậy ôm bát vào thành đến từng nhà khất thực. 
          Nhưng cả thành chẳng ai để ý tới, khó khăn lắm ngài mới gặp được một 
          gia đình tin Phật. Họ cung kính cúng cho ngài một bát cháo nóng. Sau 
          khi hớp xong miếng cháo, ngài thở dài. Vị thí chủ thấy vậy liền hỏi:
 
          - - Thưa ngài! cháo 
          không ngon sao?
 
          - - Ồ không, thời 
          Phật pháp suy vi mà có một bát cháo để ăn là tốt lắm rồi.
 
          - - Không phải thế, 
          vậy sao ngài thở dài?
 
          - - À, tôi chợt nhớ 
          lại thuở xưa, lúc đức Thế Tôn còn tại thế, tôi thường ôm bát theo Ngài 
          đến đây. Thời ấy, nhà nào cũng tin Phật, mọi người tranh nhau cúng 
          dường, nhưng bây giờ thì khác hẳn, người tin Phật ngày càng ít, thật 
          là chúng sanh phước mỏng nghiệp dày! – Vị Hòa thượng già không ngăn 
          được nước mắt.
 
          - Người thí chủ thấy 
          lạ hỏi:
 
          - - Thưa hòa thượng! 
          Ngài nói chính mắt ngài thấy đức Phật và từng ôm bát theo Ngài sao?
 
          - - Ðúng vậy!
 
          - - Xin hỏi ngài là 
          ai?
 
          - - Này thí chủ, 
          người có từng nghe nói La-hầu-la con của thái tử Tất-đạt-đa không?
 
          - - Dạ có nghe.
 
          - - Tôi chính là 
          La-hầu-la. Suốt mấy trăm năm nay, tôi luôn dốc sức hoằng dương Phật 
          pháp. – Nói xong, Hòa thượng biến mất.
 
          - Chuyện này được 
          ngài Huyền Trang ghi lại trong tác phẩm nổi tiếng “Ðại Ðường Tây Vực 
          ký”. Ðiều đó chứng tỏ việc ngài La-hầu-la lưu lại nhân gian là không 
          chút ngụy biện.
 
         
        
        --o0o--
         
        
        
        
         |