LÂM TẾ CHÚC THÁNH
& TỔ ĐÌNH PHÁP HỘI BÌNH THUẬN
Nhất Quán-Thích Đồng Trung
CHƯƠNG I
 
NGUỒN GỐC TRUYỀN THỪA
CỦA THIỀN TÔNG
 
1. TẠI ẤN ĐỘ
Khi nói về nguồn gốc của thiền tông là chúng ta liên tưởng ngay đến Pháp Hội Linh Sơn, thời điểm quan trọng khi đức bổn sư truyền trao chánh pháp nhãn tạng cho Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp thừa kế ngôi vị thiền tổ thứ nhất. Sau đó dòng thiền được truyền trao cho chư tổ kế tiếp, đến đời Ngài Bồ Đạt Ma là tổ thứ 28. Sau khi được Tổ Bát Nhã Đa La truyền pháp và phú chúc Ngài sang Trung Hoa truyền đạo; vâng lời Thầy, nên Ngài đã dùng thuyền vượt biển sang Trung Quốc. Ngài lênh đênh trên biển gần ngót ba năm, thuyền mới cặp bến Quảng-Châu, nhằm đời nhà Lương niên hiệu Phổ-Thông năm đầu (520 sau T.C.), ngày 21 tháng 9 năm Canh-Tý. Thích-sử tỉnh nầy ra đón tiếp Ngài, đồng thời dâng sớ về triều tâu vua Lương-Võ-Đế. Vua được sớ, liền sai sứ lãnh chiếu chỉ đến thỉnh Ngài về Kim-Lăng (Kinh đô nhà Lương).
2. TẠI TRUNG QUỐC
Qua những cuộc đối thoại, Vua Lương Võ-Đế không lãnh ngộ được thiền cơ, Tổ Bồ Đề Đạt Ma thấy Vua Lương Võ Đế chỉ là một phật tử thuần thành trong việc hộ đạo, của một người phật tử tại gia. Ngài biết căn cơ chẳng hợp, tạm lưu lại đây ít hôm. Đến ngày 19, Ngài bỏ vua Lương, âm thầm sang sông qua Giang-Bắc. Ngài nhập cảnh nước Ngụy đi đến Lạc-Dương nhằm đời Hậu-Ngụy, vua Hiếu-Minh-Đế niên hiệu Chánh-Quang năm đầu (520 TL.) ngày 23 tháng 11. Ngài dừng trụ tại chùa Thiếu-Lâm ở núi Trung-Sơn, trọn ngày ngồi xây mặt vào vách im lặng. Tăng chúng đều không hiểu được Ngài tu pháp môn gì, và người đời gọi Ngài là Thầy Bà-la-môn ngồi nhìn vách (Bích quán Bà-la-môn).
Và nhân duyên đã đến, có vị Tăng tên Thần-Quang học thông các sách, giỏi lý diệu huyền, nghe danh Ngài tìm đến yết kiến. Qua những trắc nghiệm thử thách, Ngài nhận làm đệ tử ban phát đạo hiệu là Huệ Khả. Cơ duyên đã đến Ngài truyền trao y bát cho Nhị Tổ Huệ Khả.
Nếu tính từ thời Đệ Nhất Thiền Tổ Ma Ha Ca Diếp thì Ngài Huệ Khả là thiền tổ đời thứ 29, nhưng tại Trung Hoa là thiền tổ thứ hai. Như thế dòng thiền luân lưu tại Trung Hoa cũng từ đó đến đời thứ sáu Lục Tổ Huệ Năng tại Trung Hoa, nhưng mà là thiền tổ đời thứ 33 trong thiền tông Ấn - Hoa.
Cũng tại Trung Hoa, sau Lục Tổ Huệ Năng - Đại Giám thì dòng thiền được truyền thừa cho Nam Nhạc - Hoài Nhượng đời 34, Mã Tổ - Đạo Nhất (đời 35), Bách Trượng - Hoài Hải (đời 36), Hoàng Bá - Hy Vận (đời 37), Lâm Tế - Nghĩa Huyền (đời 38); Ngài Lâm Tế - Nghĩa Huyền thành lập Tông Lâm Tế nên là Sơ Tổ Tông Lâm Tế. Hưng Hóa - Tồn Tưởng (đời 39), Đời thứ 2 Tông Lâm Tế Chánh Tông; Nam Viện - Huệ Ngung (đời 40), đời thứ 3 Tông Lâm Tế Chánh Tông; Phong Nguyệt - Diên Chiểu (đời 41), đời thứ 4 Lâm Tế Chánh Tông; Thủ Sơn - Tỉnh Niệm (đời 42), đời thứ 5 Lâm Tế Chánh Tông; Phần Dương - Thiện Chiểu (đời 43) đời thứ 6 Lâm Tế Chánh Tông; Thạch Sương - Sở Viên (đời 44), đời thứ 7 Lâm Tế Chánh Tông; Dương Kỳ - Phương Hội (đời 45), đời thứ 8 Lâm Tế Chánh Tông; Bạch Vân - Thủ Đoan (đời 46), đời thứ 9 Lâm Tế Chánh Tông; Ngũ Tổ - Pháp Diễn (đời 47), đời thứ 10 Lâm Tế Chánh Tông; Viên Ngộ - Khắc Cần (đời 48), đời thứ 11 Lâm Tế Chánh Tông; Hổ Khưu - Thiện Long (đời 49), đời thứ 12 Lâm Tế Chánh Tông; Ứng Am – Đàm Hoa (đời 50), đời thứ 13 Lâm Tế Chánh Tông; Mật Am - Hàm Kiệt (đời 51); đời thứ 14 Lâm Tế Chánh Tông; Phá Am – Tổ Tiên (đời 52), đời thứ 15 Lâm Tế Chánh Tông; Vô Chuẩn - Sư Phạm (đời 53), đời thứ 16 Lâm Tế Chánh Tông; Tuyết Nham - Tổ Khâm (đời 54), đời thứ 17 Lâm Tế Chánh Tông; Cao Phong - Nguyên Diệu (đời 55), đời thứ 18 Lâm Tế Chánh Tông; Trung Phong - Minh Bổn (đời 56), đời thứ 19 Lâm Tế Chánh Tông; Thiên Nham - Nguyên Trường (đời 57), đời thứ 20 Lâm Tế Chánh Tông; Vạn Phong - Thời Úy (đời 58 Thiền Ấn - Hoa) đời 21 Lâm Tế Chánh Tông tại Trung Hoa.
Ngài Vạn Phong - Thời Ủy, cho ra bài kệ mới gồm 20 chữ:
- Tổ Đạo Giới Định Tông
Phương Quảng Chứng Viên Thông
Hạnh Siêu Minh Thiệt Tế
Liễu Đạt Ngộ Chơn Không.
Đến Hòa thượng Ngộ Thiệu Minh Lý (đời 39 Thiền Lâm Tế) chùa Thập Tháp Di Đà cho thêm 4 câu, 20 chữ:
- Như Nhật Quang Thường Chiếu
Phổ Châu Lợi Ích Đồng
Tín Hương Sinh Phước Huệ
Tương Kết Chấn Từ Phong.
Ngài Vạn Phong - Thời Ủy có hai đệ tử xuất sắc là:
Tổ Đức tức là Bảo Tạng - Phổ Trí (59), đời thứ 22 Tông Lâm Tế, và Tổ Định - Tuyết Phong (đồng thời đời 22 tông Lâm Tế Trung Hoa), kế thừa chùa Thiên Đồng. Tiếp theo thiền sư  Tổ Đức - Bảo Tạng - Phổ Trí thì có:
Đông Minh - Huệ Nhạc (đời 60), đời thứ 23 Tông Lâm Tế; Hải Chu - Vĩnh Từ (đời 61), đời thứ 24 Lâm Tế Chánh Tông; Bảo Phong - Trì Tuyên (đời 62), đời thứ 25 Lâm Tế Chánh Tông; Thiên Kỳ - Bổn Thụy (đời 63), đời thứ 26 Lâm Tế Chánh Tông; Tuyệt Học – Minh Thông (đời 64), đời thứ 27 Lâm Tế Chánh Tông; Tiếu Nham - Đức Bảo (đời 65), đời thứ 28 Lâm Tế Chánh Tông; Huyễn Hữu - Chánh Truyền (đời 66), đời thứ 29 Lâm Tế Chánh Tông.
Ngài Huyễn Hữu - Chánh Truyền có hai đệ tử nổi danh là Thiền Sư Mật Vân - Viên Ngộ trụ trì chùa Thiên Đồng, và Viên Tu - Thiên Ấn trụ trì chùa Khánh Sơn.
Mật Vân - Viên Ngộ (đời 67), đời thứ 30 Lâm Tế Chánh Tông; Về sau Thiền sư Mộc Trần - Đạo Mân đắc pháp với Thiền sư Mật Vân – Viên Ngộ, nên có pháp danh Thông Thiên - Hoằng Giác (đời 68), đời thứ 31 Lâm Tế Chánh Tông.
Ngài Mộc Trần - Đạo Mân tức là Thông Thiên – Hoằng Giác cho ra bài kệ:
- Đạo Bổn Nguyên Thành Phật Tổ Tiên
Minh Như Hồng Nhật Lệ Trung Thiên
Linh Nguyên Quảng Nhuận Từ Phong Phổ
Chiếu Thế Chơn Đăng Vạn Cổ Truyền.
Tiếp theo tổ Mộc Trần - Đạo Mân là Khoáng Viên - Bổn Quả (đời 69), đời thứ 32 dòng Lâm Tế Chánh Tông; Siêu Bạch - Thọ Tông (đời 70), đời thứ 33 dòng Lâm Tế Chánh Tông; Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo (đời 71), đời thứ 34 dòng Lâm Tế Chánh Tông.
3. TẠI VIỆT NAM
Như chúng ta biết, thiền phái Lâm Tế tuy đã được Thiền sư Lâm Tế - Nghĩa Huyền lập tôn rất sớm tại Trung Hoa, nhưng mãi cho đến năm 1633 mới được Thiền Sư Chuyết Công và Minh Hành Tại Tại truyền vào Đàng Ngoài của Đại Việt (Việt Nam). Còn Thiền Phái Lâm Tế Đàng Trong thì mãi cho đến năm 1665 tức là cho đến 32 năm sau mới được Thiền Sư Nguyên Thiền - Hoán Bích truyền vào Đại Việt. Về sau dòng Thiền Lâm Tế cả hai Đàng, Đàng Trong và Đàng Ngoài đều được các thiền tổ phát huy đúng mức nên đã chính thức định hình cho tông Lâm Tế phát triển lâu dài, rõ ràng nhất tại Việt Nam trãi qua mấy trăm năm nay.
A. LÂM TẾ ĐÀNG NGOÀI
Thiền sư Viên Văn Chuyết Chuyết (đời 72 Thiền Ấn - Hoa), đời 34 Thiền Lâm Tế Việt Nam. Minh Hành đời 73 Thiền Ấn - Hoa (đời Thiền Lâm Tế Việt Nam 35).
Thiền sư Viên Văn Chuyết Chuyết tên đời là Lý Thiên Tộ, sinh năm 1590 tại Tiệm Sơn, quận Thanh Sơn, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Lớn lên theo học với Trưởng lão Tiệm Sơn, có pháp hiệu là Hải Trừng. Về sau tham yết Hòa thượng Tăng Nguyên Đà Đà ở Nam Sơn, được Tổ truyền tâm ấn. Tổ nói:
- Ngày sau, Ta sẽ nhường chỗ cho người này. Y sẽ bước khỏi đầu sào trăm trượng.
Sau khi đắc pháp, Ngài đi hoằng hóa khắp nơi tại miền Nam Trung Quốc.
Năm 1633 thiền sư đã cùng một số đệ tử trong đó có thiền sư Minh Hành Tại Tại đến kinh thành Thăng Long, thầy trò ở lại Chùa Khán Sơn, Hà Nội và bắt đầu giảng dạy Phật Pháp. Trước khi đến kinh thành Thăng Long, Thiền Sư Chuyết Chuyết (1*) và Minh Hành Tại Tại đã từ Cao Miên đi qua Chiêm Thành rồi sang Đại Việt. Trước khi ra đàng ngoài đã đi qua Đàng Trong, và có thể thầy trò đã dừng chân hoằng hóa tại Bình Định (lúc bấy giờ Bình Định đã thuộc về lãnh thổ Đại Việt) và Thuận Hóa, và đã ghi dấu chân các Ngài ở những nơi đó.
Ta biết rằng Thiền Sư Chuyết Chuyết và Minh Hành Tại Tại trước khi đến Kinh thành Thăng Long cũng đã từng dừng chân hoằng hóa tại Nghệ An, hành đạo tại chùa Thiên Tượng và ở tại Thanh Hóa khai sáng Chùa Trạch Lâm. Với uy tín đó, nên khi bắt đầu giảng pháp tại Chùa Khán Sơn, người đến học gồm cả hai giới người Hoa và Việt rất đông. Sau một thời gian thiền sư đến hành đạo lâu dài tại chùa Vạn Phúc (Phật Tích), Bắc Ninh; cách kinh thành khoảng 30 cây số. Trong thời gian giáo hóa ở đây Thiền Sư được chúa Trịnh Tráng rất quý mến, và xem như bậc thầy. Vua Lê Thần Tông và các bậc công hầu cũng đều rất kính trọng. Trong số đệ tử quy có cả nhà Vua, chúa Trịnh Tráng, hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc và công chúa Lê Thị Ngọc Duyên… Năm 1643, sau khi hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (vợ vua Lê Thần Tông) pháp danh Diệu Viên, hiệu Pháp Tánh tu bổ chùa Ninh Phúc (Bút Tháp), Bắc Ninh xong, cung thỉnh Tổ Chuyết Chuyết sang trụ trì, còn Minh Hành Tại Tại trụ trì chùa Vạn Phúc (Phật Tích). Vào ngày rằm tháng bảy năm Giáp Thân (1644) thiền sư Chuyết Chuyết viên tịch, thọ 55 tuổi. Thiền Sư Minh Hành xây tháp Bảo Nghiêm thờ tại chùa Vạn Phúc (Phật Tích), và xây tháp thờ vọng tại chùa Ninh Phúc (Bút Tháp). Tổ để lại nhục thân không rã, còn tôn trí đến ngày nay. Sau khi viên tịch, Tổ được vua Lê Trang Tông ban thụy hiệu “Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế Đại đức Thiền sư”. 
Sau khi Tổ Chuyết Chuyết viên tịch, thiền sư Minh Hành Tại Tại đời 73 Thiền tổ Ấn – Hoa, đời 35 Thiền Lâm Tế Việt Nam), Phái Lâm Tế Đàng Ngoài trụ trì chùa Ninh Phúc (Bút Tháp), Ni sư Pháp Tánh - Diệu Viên trụ trì chùa Vạn Phúc (Phật Tích). Thiền Sư Minh Hành Tại Tại cho ra bài kệ truyền pháp Lâm Tế Đàng Ngoài (Bắc Việt) như sau:
- Minh Chân Như Bảo Hải
Kim Tường Phổ Chiếu Thông
Chí Đạo Thành Chánh Quả
Giác Ngộ Chứng Chơn Không.
Nghĩa là:
- Thấy chân như biển rộng
Ánh vàng chiếu vô cùng
Đạt đạo thành chánh quả
Giác ngộ chứng chân không.
Khi thiền sư Minh Hành Tại Tại viên tịch năm 1659, thọ 64 tuổi, thì Ni sư Diệu Viên thay thế trụ trì chùa Ninh Phúc, trong khi đó công chúa Lê Thị Ngọc Duyên xuất gia pháp danh Diệu Tuệ trụ trì chùa Vạn Phúc (Phật Tích). Cho đến thời Tây Sơn - Pháp thuộc, chùa bị phá hủy chỉ còn lại di tích Bảo tháp có toàn thân Tổ Viên Văn Chuyết Công và tượng Phật Di-đà do vua Lý Thánh Tông tạc năm 1057.
Song song với sự truyền đạo của Tổ Minh Hành Tại Tại, tại đạo tràng của tổ thứ 3 phái Lâm Tế Đàng Ngoài là chùa Liên Tôn (Liên Phái Hà Nội), do thiền sư Như Trừng Lân Giác (tên đời là Trịnh Thập) sáng lập. Thiền sư Như Trừng Lân Giác là đệ tử của tổ Minh Lương, chùa Vĩnh Phúc, nhưng cầu pháp xuất gia với Thiền sư Chân Nguyên Chánh Giác (chùa Lân, Long Động, Yên Tử, Quảng Ninh) nên được thiền sư Chân Nguyên ban pháp danh Như Trừng Lân Giác, hoằng hóa tông Lâm Tế một thời gian dài, có sự kế thừa rõ nét từ: thiền sư Minh Lương (đời 73), đời 35 Lâm Tế Việt Nam; Chân Nguyên Chánh Giác (đời 74) đời 36 Tông Lâm Tế Việt Nam, Như Trừng Lân Giác, Như Hiện - Nguyệt Quang), Thuần Giác (đời 75 cùng đời); đời 37 Tông Lâm Tế Việt Nam, Đỗ Đa Lưỡng Quốc, Tánh Tĩnh (cùng đời 76), đời 38 Tông Lâm Tế Việt Nam; Từ Phong Hải Quýnh (đời 77), đời 39 Tông Lâm Tế Việt Nam; Kim Liên Tịch Truyền (đời 78), đời 40 Tông Lâm Tế Việt Nam, Tường Quang Chiếu Khoan (đời 79), đời 41 Tông Lâm Tế Việt Nam, Phổ Tánh (đời 80), đời 42 Tông Lâm Tế Việt Nam, Sơn Tây (đời 81), đời 43 Tông Lâm Tế Việt Nam, xuất gia với Tổ Từ Tánh chùa Thiên Quang núi Đại Hùng (Hà Tây - Hà Nội), về sau trụ trì chùa Từ Ân Bổn Xả, pháp danh Tánh Kim. Đến đây, phái Lâm Tế Đàng Ngoài từ từ hòa nhập với tông Tào Động Việt Nam.
B. LÂM TẾ ĐÀNG TRONG
Trong thâm ý của Chúa Nguyễn, đạo Phật có thể làm nơi nương tựa tinh thần cho công trình lập quốc của dòng họ Nguyễn sau nầy, cho nên ngay sau khi Doãn Quốc Công Nguyễn Hoàng (1558-1613) vào trấn thủ đất Thuận Hóa ông đã để ý đến việc lập chùa (2*). Năm 1601, ông đã bắt đầu xây dựng chùa Thiên Mụ ở xã Hà Khê, huyện Hương Trà. Năm sau vào ngày Vu Lan, Chúa đến chùa Thiên Mụ lập trai đàn làm lễ bố thí. Chúa lại cho dựng chùa Sùng Hóa trên nền một ngôi chùa cổ ở xã Triêm Ân huyện Phú Vang. Năm 1609, Chúa lại lập chùa Kinh Thiên ở Thuận Trạch, Quảng Bình. Sau khi Chúa dựng xong dinh Quảng Nam ở xã Cần Húc, Chúa lại cho lập một ngôi chùa gần đó gọi là Chùa Long Hưng, ở về mé đông của trấn. Đó là lý do sau nầy các Chúa Nguyễn đều tỏ vẻ sùng thượng đạo Phật, và nhân dân Đàng Trong cũng nghênh đón các vị du tăng Trung Hoa với một tấm lòng chân thật, mặn nồng. Trong thời đại chuyển tiếp giữa hai triều Minh - Thanh, nhiều cao tăng Trung Hoa đã tới Đàng Trong hoằng pháp, trong thế kỷ thứ 17 ghi nhận sự có mặt của các thiền sư Trung Hoa sau đây:
- Các thiên sư Viên Cảnh và Viên Khoan ở Quảng Trị
- Thiền Minh Hoàng khai sơn chùa Ấn Tôn, Thuận Hóa
- Thiền sư Giác Phong khai sơn chùa Thiên Thọ, Thuận Hóa
- Thiền sư Từ Lâm khai sơn chùa Từ Lâm, Thuận Hóa
- Thiền sư Nguyên Thiều khai sơn chùa Thập Tháp Di Đà, Bình Định  và các chùa Quốc Ân và Hà Trung, Thuận Hóa.
- Thiền sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo khai sơn chùa Chúc Thánh, Quảng Nam
- Thiền sư Tế Viên, khai sơn chùa Hội Tông, Phú Yên
- Thiền sư Pháp Hóa khai sơn chùa Thiên Ấn, Quảng Ngãi, và nhiều vị thiền sư khác nữa.
Hai trong những vị thiền sư đã từng đặt chân đến phần đất Đàng Trong để truyền đạo, và sau nầy lập nên dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh được chư tăng và tín đồ biết nhiều đó là hai vị Thiền Sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo và Nguyên Thiều - Hoán Bích.
Tổ họ Tạ pháp danh Nguyên Thiều, hiệu Hoán Bích, ngài còn có pháp danh khác là Siêu Bạch hiệu Thọ Tông sinh năm Mậu Tý (1648), người huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, tỉnh Quảng Đông. Năm 19 tuổi Ngài Xuất gia tại chùa Báo Tư, tu học dưới sự hướng dẫn của thiền sư Khoáng Viên - Bổn Quả. Ngài theo thuyền buôn sang Đại Việt trong đời chúa Nguyễn Phúc Tần, và ngài cũng là người nối pháp đời thứ 33 Tông Lâm Tế Chánh Tông. Ban đầu khi mới đến Đại Việt, Ngài cư trú tại phủ Quy Ninh (Bình Định bây giờ). Vào năm 1678, lúc đó ngài vừa tròn 30 tuổi, Ngài cho xây dựng chùa Thập Tháp Di Đà, công trình đến năm 1683 hoàn thành. Chùa nầy tọa lạc ở làng Thuận Chánh, huyện Tuy Viễn, vì sau chùa có mười ngôi cổ tháp Chàm, cho nên chùa được gọi là Chùa Thập Tháp. Tổ cử hành lễ khánh thành, được vua Lê Hy Tông ban bảng vàng: Sắc Tứ Thập Tháp Di Đà Tự.
Sau đó thiền sư Nguyên Thiều - Hoán Bích ( Siêu Bạch - Thọ Tông) ra Thuận Hóa dựng chùa Quốc Ân và xây tháp Phổ Đồng. Chùa Quốc Ân tọa lạc tại ấp Phước Quả. Chùa cũng được chúa Nguyễn Phúc Chu ban cho liễn đối có ghi đạo hiệu của chúa là Thiên Túng Đạo Nhân.
Sở dĩ tổ có hai tên là Nguyên Thiều - Hoán Bích và Siêu Bạch - Thọ Tông (3*) là vì thiền tôn truyền đến đời thiền sư Nghĩa Huyền, ngài lập ra nhánh gọi là Lâm Tế và Ngài là sơ tổ của dòng Lâm Tế. Dòng Lâm Tế truyền đến đời 21 là Vạn Phong Thời Ủy chùa Thiên Đồng (Trung Hoa) xuất ra bài kệ: Tổ, Đạo, Giới …. truyền đến đời 31 là ngài Đạo Mân lại xuất ra một dòng kệ khác: Đạo, Bổn, Nguyên, Thành ….
Xét về Nguyên Thiều - Hoán Bích là thuộc về dòng kệ của Ngài Đạo Mân, tức là sư tổ của Ngài mới lập ra hai đời; Còn Siêu Bạch - Thọ Tông là thuộc về dòng kệ của Ngài Vạn Phong - Thời Ủy, tức là tổ mười hai đời của Ngài truyền xuống. Do đó người ta bảo ngài đã thọ giáo cả hai bên. Bên dòng kệ của ngài Vạn Phong - Thời Ủy thì ngài được hiệu là Siêu Bạch - Thọ Tông; bên dòng kệ của ngài Đạo Mân thì ngài được hiệu là Nguyên Thiều - Hoán Bích. Vì là thọ giáo cả hai bên, nên một bên ngài truyền xuống dòng kệ chữ Siêu của tổ Vạn Phong, một bên ngài muốn truyền xuống dòng kệ chữ Nguyên của tổ sư mình, cho nên trong quá trình truyền thừa, ý Tổ Nguyền Thiều muốn giữ cả hai dòng kệ, vì cùng chung một môn phái Lâm Tế Nghĩa Huyền, cùng một chốn Tổ là Thiên Đồng, Thiên Khai, Báo Tư, nên khi truyền pháp, Ngài dùng hai chữ: Bên chữ Nguyên cho đến Thành, Phật, Tổ, Tiên… hay bên chữ Siêu cho đến Minh, Thiệt, Tế ..v.v… tùy theo nhân duyên phú pháp.
Sau một thời gian hành đạo tại chùa Thập Tháp Di Đà, Tổ vân du hóa đạo các tỉnh cực Bắc (Thuận Hóa), trùng tu chùa Hà Thành (chùa Hà Trung) cửa biển Tư Dung nay là Tư Hiền, huyện Phú Lộc, Thừa Thiên Huế. Sau đó, Tổ trùng tu chùa Vĩnh Ân, đổi tên thành chùa Quốc Ân (TP. Huế). Năm 1690, Tổ vâng lịnh chúa Nguyễn Phúc Trăn về Trung Quốc thỉnh một số chư Tăng sang hành đạo tại Đàng Trong và một số pháp khí để tôn thờ tại chùa Thiên Mụ, Hà Trung, Quốc Ân v.v… Đến năm 1694, thời chúa Nguyễn Phúc Chu, Tổ cùng đệ tử vân du hành đạo tại miền Nam, trước tiên lưu trú tại chùa Đại Giác, Cù lao Phố, Đồng Nai.
Có thể nói trong quá trình di dân, mở mang bờ cõi phương Nam của chúa Nguyễn đã có nhiều lưu dân Thuận Quảng vào cư trú tại đây, mốc thời gian cụ thể là năm 1611. Và trong đó không loại trừ các thiền sư phái Trúc Lâm gốc Lâm Tế vào hóa đạo và xây dựng chùa chiền, như Thiền sư Viên Cảnh Lục Hồ, Đại Thâm Viên Khoan, Viên Văn Chuyết Chuyết, Minh Hành Tại Tại v.v… vào những năm 1630-1640. Như vậy, chùa Đại Giác, Bửu Phong đã in dấu chân hoằng hóa của các thiền sư này, trước khi Tổ Nguyên Thiều đến lưu ngụ và hành đạo tại phương Nam (1694). Sang năm 1695, Tổ Nguyên Thiều xây dựng chùa Kim Cang - Bình Thảo, Biên Hòa, Đồng Nai và hóa độ rất nhiều đệ tử nổi danh, làm xán lạn Phật Giáo Đàng Trong cũng như Đồng Nai - Gia Định (Nam Kỳ lục tỉnh). Vì lúc đó, Gia Định thành là gồm cả vùng đất miền Đông và miền Tây (Dinh Trấn Biên - Biên Hòa, Dinh Phiên Trấn - Gia Định, Chợ Lớn, Dinh Trường Đồn - Long An, Mỹ Tho; Dinh Long Hồ - Vĩnh Long, An Giang và trấn Hà Tiên).
Như trên đã nói, Tổ Nguyên Thiều sử dụng hai bài kệ cùng dòng phái là Tổ Đạo Giới Định Tông và Đạo Bổn Nguyên… Do đó, khi truyền thừa pháp phái Lâm Tế thì có hai dòng chữ: Từ chữ Nguyên cho đến chữ Thành, Phật, Tổ, Tiên; từ chữ Siêu cho đến chữ Minh, Thật, Tế… Rồi từ đó các Hòa thượng mang chữ Minh hay chữ Thành cũng theo gương Tổ Nguyên Thiều truyền cho đệ tử cũng theo dòng kệ của Tổ Định Tuyết Phong (Tổ Đạo Giới…) hoặc Đạo Mân Mộc Trần (Đạo Bổn Nguyên…), nhưng dù chữ nào, cũng là một dòng Lâm Tế, là đệ tử Phật, đệ tử cùng Tổ với nhau, cùng một Tổ đình Thiên Đồng, Thiên Khai, Báo Tư - Trung Quốc, hay Thập Tháp Di Đà - Bình Định, Quốc Ân, Thiền Tôn - Huế, Kim Cang, Đại Giác - Đồng Nai, Từ Ân, Giác Lâm - Gia Định, Sài Gòn, Tây An, Phi Lai - Châu Đốc, An Giang v.v…
Sau hơn 80 năm hành đạo, Phật sự đã xong, công viên quả mãn, ngày 19/10 Mậu Thân, niên hiệu Bảo Thái thứ 9 (20/11/1728) ngài an nhiên thị tịch, thọ 81 tuổi. Các hàng đệ tử, môn đồ xây tháp Tổ thờ tại chùa Quốc Ân và Phổ Thành - Hà Trung - Phổ Đồng Thuận Hóa (Huế) và chùa Kim Cang - Đồng Nai.
Sang năm Kỷ Dậu, hiệu Bảo Thái thứ 10 (1729), mùa Phật đản mồng 8 tháng 4 chúa Nguyễn Phúc Trú (1725-1738) ban tặng thụy hiệu: “Thiền sư Hạnh Đoan”, Sắc tứ Hà Trung tự Hoán Bích bi ký và bài minh khắc vào bia tháp phụng thờ.
C. THIỀN PHÁI LÂM TẾ CHÚC THÁNH RA ĐỜI
Có thể nói, thiền sư Nguyền Thiều - Hoán Bích ( Siêu Bạch - Thọ Tông) là vị tổ sư truyền phái Lâm Tế vào Trung Việt đầu tiên, thiền sư có những đệ tử xuất gia và cầu pháp như các ngài: Minh Vật - Nhất Trí, Minh Lượng Thành Đẳng, Minh Dung - Pháp Thông, Minh Hải - Pháp Bảo đều là những đệ tử ưu tú thời bấy giờ. Trong số các đệ tử của ngài, thiền sư Minh Hải - Pháp Bảo lập chùa Chúc Thánh tại Hội An, Quảng Nam và xuất kệ truyền thừa lập tôn môn phái Lâm Tế Chúc Thánh.
Như ta đã biết, trước khi thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh ra đời, tại Quảng Nam đã có nhiều vị thiền sư danh tiếng giáo hóa như: Minh Châu Hương Hải, Thạch Liêm, Hưng Liên - Quả Hoằng … Với sự hoằng hóa của các thiền sư nầy đã làm cho người dân đất Quảng thấm nhuần Phật Pháp. Nhưng do vì các ngài tùy duyền giáo hóa, chợt đến chợt đi khiến cho người con Phật nơi đây không có nơi nương tựa lâu dài. Chính vì lẽ đó, khi thiền sư Minh Hải - Pháp Bảo quyết định trụ lại Quảng Nam hoằng hóa đã đáp ứng được niềm khao khát mong đợi của người con Phật nói riêng và toàn dân nói chung từ bấy lâu nay. Như vậy, nếu như các ngài Minh Châu, Thạch Liêm, Hưng Liên có công xây dựng nền móng của ngôi nhà phật Pháp, thì ngài Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo là người có công kiến tạo tòa nhà Phật Giáo Quảng Nam mà qua đó được tiêu biểu là dòng Lâm Tế Chúc Thánh.
D. VỀ THIỀN SƯ PHÁP HẢI - ĐẮC TRÍ - MINH BẢO
Thiền sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo (1670 - 1746) thế danh là Lương Thế Ân, sinh vào giờ Tuất, ngày 28 tháng 6 năm Canh Tuất (1670) nhăm năm Khang Hy thứ 8 triều nhà Thanh tại làng Thiệu An, huyện Đồng An, phủ Tuyên Châu, tỉnh Phước Kiến, Trung Hoa. Thân phụ là Lương Đôn Hậu, thân mẫu là Trần Thục Thận, anh trai là Lương Thế Bảo, em trai là Lương Thế Định. Ngài là con thứ hai trong gia đình.
         Thuở thiếu thời, ngài đã tỏ ra thông minh khác người và có tâm hướng về Đạo Phật. Năm Mậu Ngọ (1678), ngài được song thân đưa đến xuất gia tại chùa Báo Tư (nơi tổ Nguyên Thiều xuất gia, và năm Mậu Ngọ cũng là năm tổ Nguyên Thiều khởi công xây dựng chùa Thập Tháp Di Đà) thuộc tỉnh Quảng Châu, lúc bấy giờ ngài tròn 9 tuổi. Sau thời gian tu học, khi vừa tròn 20 thì ngài được đăng đàn thọ cụ túc giới với pháp danh Minh Hải, tự Đắc Trí, hiệu Pháp Bảo. Như vậy Ngài nối pháp đời 34 dòng Lâm Tế truyền theo bài kệ của ngài Vạn Phong - Thời Ủy.
          Năm Ất Hợi (1695) thể theo lời thỉnh cầu của chúa Nguyễn Phúc Chu, ngài cùng các ngài Minh Vật Nhất Trí, Minh Hoàng - Tử Dung, Minh Lượng - Thành Đẳng … trong Hội Đồng Thập Sư cùng Hoà Thượng Thạch Liêm sang An Nam truyền giới. Phái đoàn xuống thuyền bến Hoàng Phố tại Trung Hoa và cập bến Hội An vào ngày 28 tháng Giêng năm Ất Hợi (1695). Sau đó, đoàn ra Thuận Hóa, được chúa Nguyễn Phúc Chu đón tiếp trọng thể và thỉnh về ngụ tại Chùa Thiền Lâm. Sau ngày đại giới đàn tại Chùa Thiền Lâm, chùa Di Đà, chùa Thiên Mụ, ngài Thạch Liêm và phái đoàn trở về Quảng Đông và không qua nữa.
          Khi ngài Thạch Liêm về nước, có một số vị trong phái đoàn quyết định ở lại An Nam như ngài: Minh Hoàng - Tử Dung khai sơn chùa Ấn Tôn ở Thuận Hóa, ngài Minh Lượng - Thành Đẳng khai sơn chùa Vạn Đức tại Cẩm Hà, Hội An, ngài Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo khai sơn chùa Chúc Thánh tại Cẩm Phô, Hội An. 
          Sau khi quyết định trụ lại Hội An để hoàng dương chánh pháp, tổ Minh Lương - Thành Đẳng khai sơn chùa Vạn Đức truyền pháp theo bài kệ của ngài Mộc Trần - Đạo Mân, riêng ngài Minh Hải - Pháp Bảo biệt xuất riêng một bài kệ truyền pháp. Từ đó, trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam xuất hiện một dòng phái mới, đó là Thiền Phái Lâm Tế Chúc Thánh. Toàn văn bài kệ tất cả có tám câu; bốn câu đầu là pháp danh, bốn câu sau là pháp hiệu. Bài kệ truyền pháp danh có bốn câu, mỗi câu năm chữ như sau:
          - Minh Thiệt Pháp Toàn Chương
          Ấn Chơn Như Thị Đồng
          Chúc Thánh Thọ Thiên Cửu,
          Kỳ Quốc Tộ Địa Trường.
          Và bốn câu truyền pháp tự, mỗi câu năm chữ như sau:
          - Tổ Đạo Giải Hạnh Thông
          Đắc Chánh Luật Vi Tông
          Giác Hoa Bồ Đề Thọ
          Sung Mãn Nhân Trung Thiên.
          Ý nghĩa chung của bốn câu pháp danh và bốn câu pháp tự là:
          - Khai sáng pháp chân thật
          Tánh chân như là đồng
          Cầu thánh quân muôn tuổi
          Chúc đất nước vững bền
          Giới luật nêu trước tiên
          Giải và hành nối liền
          Hoa nở cây giác ngộ
          Hương thơm lừng nhân thiên.
          (Thích Nhất Hạnh dịch)
Ngoài bài kệ truyền pháp tại Quảng Nam trước đây, chư tăng môn phái Chúc Thánh tại Bình Định cũng có một bài kệ truyền pháp như sau:
TRUYỀN PHÁP DANH KỆ:
- Minh Thiệt Pháp Toàn Chương
 Ấn Chơn Như Thị Đồng 
Vạn Hữu Duy Nhất Thể 
Quán Liễu Tâm Cảnh Không 
Giới Hương Thành Thánh Quả 
Giác Hải Dõng Liên Hoa 
Tín Tấn Sanh Phước Huệ 
Hạnh Trí Giải Viên Thông 
Ảnh Nguyệt Thanh Trung Thủy 
Vân Phi Nhật Khứ Lai 
Đạt Ngộ Vi Diệu Tánh 
Hoằng Khai Tổ Đạo Trường.
TRUYỀN PHÁP TỰ KỆ:
- Đắc Chánh Luật Vi Tông 
Tổ Đạo Giải Hạnh Thông 
Giác Hoa Viên Cảnh Trí 
Sung Mãn Lợi Nhân Thiên 
Hằng Sa Chư Pháp Giới 
Tế Độ Đẳng Hàm Sanh 
Châu Viên Thể Tướng Dụng 
Quán Chiếu Sát Trần Trung 
Khứ Lai Đương Nhất Niệm 
Năng Sở Khởi Phi Tha 
Tâm Cảnh Thùy Biên Thủ 
Chơn Vọng Tổng Giai Như.
Nguyên nhân xuất hiện của bài kệ thứ hai này là vì vào năm 1967, có một học tăng gốc người Hoa đến nộp đơn học tại trường trung học Bồ Đề Nguyên Thiều (Bình Định). Qua lý lịch thì được biết học sinh này có quan hệ thân tộc với Tổ Nguyên Thiều. Theo sự yêu cầu của thầy giám học Thích Đổng Quán, gia đình vị học tăng này cung cấp một số tư liệu về gia phả Tổ Nguyên Thiều, trong đó có bài kệ này. Từ đó, chư Tăng dòng Chúc Thánh tại Bình Định sau chữ Đồng thì truyền xuống chữ Vạn chứ không truyền xuống chữ Chúc.
Về sự xuất hiện bài kệ thứ hai nầy, có người thắc mắc:
- Giữa hai bài kệ thì bài nào đích thực là của Tổ Minh Hải?
- Tại sao bài kệ Tổ Minh Hải không không nằm trong gia phả của ngài mà lại nằm trong gia phả của ngài Nguyên Thiều?
          TRƯỚC HẾT, BÀI KỆ NÀO ĐÍCH THỰC LÀ CỦA TỔ MINH HẢI - PHÁP BẢO
Chúng ta thấy nguyên văn bài kệ thứ hai, về pháp danh cũng như pháp tự, có tất cả mười hai câu. Cả pháp danh và pháp tự hai câu đầu đều giống nhau, chỉ khác là cả bên pháp danh và pháp tự đều thêm tám câu.
          - Phần bên pháp danh là diễn tả một quá trình tinh tấn để đến kết quả cho tâm nguyện là: Theo dấu chân chư tổ, tinh tấn tu tập, làm cho đạo pháp miên trường
          - Phần bên pháp tự, trước hết xác định là phải dùng giới luật làm căn bản tu tập, để rồi đạt đến thể tánh viên dung, tới lui tự tại, nhưng cuối cùng tế độ khắp muôn loài, làm cho hương thơm giải thoát lan tỏa khắp mọi nơi. 
           Xét nội dung hai bài kệ truyền pháp thì cũng không có gì sai lệch, tuy là văn tự có thêm tám câu khác biệt, nhưng ý nghĩa không thay đổi. Ở điểm nầy chúng ta có thể nghĩ:
          - Có thể bài kệ nầy đã có từ sớm lúc tổ còn ở bên Trung Hoa, mà nhất là trong lúc còn đang tu tập với tổ Nguyên Thiều cho nên toàn văn đều nói lên quá trình tu tập. Nhưng đến khi sang An Nam, khai sơn chùa Chúc Thánh, giữa một xã hội mới, lạ, trong hoàn cảnh nhiểu nhương cho nên tổ giản lược lại với ý muốn nói:
           - Đừng thay vua đổi chúa nữa,
 Cầu thánh quân muôn tuổi
          Chúc đất nước vững bền
          Giới luật nêu trước tiên
          Giải và hành nối liền
          Hoa nở cây giác ngộ
          Hương thơm lừng nhân thiên.
Cho nên chúng ta nghĩ là bài kệ nầy vẫn là của Tổ Minh Hải, nghĩa là cùng một con người, nhưng ở hai địa phương khác nhau thì sự suy tư, hạnh nguyện tu tập phải có sự thay đổi, nhưng căn bản thì không thay đổi.
        CÒN NÓI VỀ THẮC MẮC, BÀI KỆ NẦY TẠI SAO KHÔNG NẰM TRONG GIA PHẢ CỦA TỔ MÀ LẠI NẰM TRONG GIA PHẢ TỔ NGUYÊN THIỀU?
          Để cho rõ vấn đề nầy, xin được nhắc lại một chút về năm sanh của tổ Nguyên Thiều - Hoán Bích. Tổ Nguyên Thiều - Hoán Bích sanh năm 1648, xuất gia tại chùa Báo Tư năm 19 tuổi. Sau đó tổ đã theo thuyền buôn sang An Nam (Việt Nam) đời chúa Nguyễn Phúc Tần, đến năm Mậu Ngọ (1678) Ngài khai sơn chùa Thập Tháp Di Đà, lúc đó ngài tròn 30 tuổi.
Tổ Minh Hải - Pháp Bảo sinh vào năm Canh Tuất (1670),  xuất gia năm Mậu Ngọ (1678), lúc đó vừa tròn 9 tuổi, cũng là năm tổ Nguyên Thiều thành lập chùa Thập Tháp Di Đà. Năm 20 tuổi Ngài thọ giới cụ túc với pháp danh Minh Hải, tự Đắc trí, hiệu Pháp Bảo.
Ta biết là năm 1678 là năm tổ Nguyên Thiều khai sáng chùa Thập Tháp Di Đà mà cũng là năm xuất gia của tổ Minh Hải, có lẽ lúc nầy là dịp tổ Nguyên Thiều về Trung Hoa thăm lại chùa xưa và làm lễ xuất gia cho tổ Minh Hải? Cho đến 11 năm sau tổ Minh Hải thọ cụ túc giới lúc vừa tròn 20 tuổi. Có lẽ lúc nầy cũng là dịp tổ Nguyên Thiều về thăm lại chùa và chứng minh giới đàn?
Từ xưa tới nay, nhất là trong truyền thống Phật Giáo, luôn nhắc nhở Thầy, Tổ như là bậc cha mẹ thứ hai, cho nên lúc thọ giới cụ túc, cũng là lúc xuất bài kệ nầy, Tổ Minh Hải đã trình bài kệ nầy lên Thầy của mình là tổ Nguyên Thiều để được ấn chứng. Có lẽ sau khi trình kệ xong, sau đó tổ Nguyên Thiều đã vội vã về lại An Nam để lo phật sự (vì lúc nầy tổ Nguyên Thiều đang xây dựng chùa Thập Tháp Di Đà), cho nên những hành lý của tổ Nguyên Thiều do gia đình cất giữ. Có thể trong mớ hành lý đó có bài kệ trình pháp của tổ Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo?
Sự kiện tổ Nguyên Thiều đi đi, về về giữa Việt Nam và Trung Hoa tuy là trong sử không ghi điều nầy, nhưng căn cứ theo yêu cầu của chúa Anh Tôn - Nguyễn Phúc Trăn (1686 - 1691) trở về Trung Hoa mời các danh tăng,  nên tổ Nguyên Thiều đã về lại Trung Hoa để thỉnh thiền sư Thạch Liêm, và phái đoàn chư tăng qua An Nam. Có lẽ các chúa nhà Nguyễn đã biết tổ Nguyên Thiều đã đi qua lại nhiều lần nên các chúa mới tin tưởng và giao cho trách nhiệm cung thỉnh chư tăng. Mãi cho đến năm Ất Hợi (1695) thể theo lời thỉnh cầu của chúa Nguyễn Phúc Chu, tổ Minh Hải cùng các ngài Minh Vật Nhất Trí, Minh Hoàng - Tử Dung, Minh Lượng - Thành Đẳng … trong Hội Đồng Thập Sư cùng Hoà Thượng Thạch Liêm sang An Nam truyền giới, lúc đó thầy trò mới có cơ hội gặp lại tại An Nam. Tại An Nam tổ Nguyên Thiều và tổ Minh Hải còn gặp gở nhau suốt 33 năm trên tuyến đường truyền bá chánh pháp.
Cho đến khi tổ Minh Hải thành lập chùa Chúc Thánh và giản lươc lại bài kệ, như chúng ta đã và đang thấy lưu truyền như hiện nay. Ta có thể nghĩ như vậy mới thấy tánh hợp lý tại sao bài kệ của tổ Minh Hải lại có mặt trong gia phả của tổ Nguyên Thiều, và đồng thời cho ta biết sự liên hệ tình thầy trò từ lúc xuất gia cho khi thành đạt, mặc dù giữa tổ Nguyên Thiều và tổ Minh Hải gặp nhau rất ít, nhưng vẫn thắm thiết tình thầy trò giữa hai tổ Nguyên Thiều và tổ Minh Hải.
          Nếu như suy nghĩ như vậy, thì chúng ta có thể kết lưận, bài kệ mới phát hiện sau nầy là có trước, và bài kệ được truyền thừa theo dòng Lâm Tế Chúc Thánh là có sau, nhưng cả hai đều của tổ Minh Hải – Pháp Bảo.       
Sau gần 50 năm sang An Nam hoằng truyền chánh pháp, đến ngày mồng 7 tháng 11 năm Bính Dần (1746), Ngài gọi đồ chúng đến dặn dò và đọc kệ phú chúc:
- Nguyên phù pháp giới không
Chơn như vô tánh tướng
Nhược liễu ngộ như thử
Chúng sanh dữ Phật đồng
Tạm dịch:
Pháp giới như mây nổi
Chân như không tánh tướng
Nếu hiểu được như vậy
Chúng sanh với Phật đồng
Sau khi phú chúc cho hàng môn đệ xong thì Ngài thâu thần thị tịch, trụ thế 77 tuổi. Đồ chúng cung thỉnh nhục thân của Ngài nhập bảo tháp ở phía Tây Nam trong khuôn viên tổ đình Chúc Thánh.
Từ đây, trong dòng lịch sử truyền thừa của Phật Giáo Việt Nam có một dòng thiền mới xuất hiện mà sử sách gọi là dòng thiền Chúc Thánh, hay còn gọi thiền phái Minh Hải Pháp Bảo. Từ khi Tổ Minh Hải - Pháp Bảo khai sơn, chùa Chúc Thánh đã trải qua 300 năm và 12 đời trụ trì như sau:
01. Đời 34: Ngài Minh Hải-Đắc Trí-Pháp Bảo
02. Đời 35: Ngài Thiệt Diệu-Chánh Hiền.
03. Đời 36: Ngài Pháp Diễn-Bảo Tràng
04. Đời 37: Ngài Toàn Đăng-Bảo Nguyên.
05. Đời 37: Ngài Toàn Nhâm-Vi Ý-Quán Thông.
06. Đời 38: Ngài Chương Đạo-Tuyên Tùng-Quảng Viên.
07. Đời 38: Ngài Chương Khoáng-Tuyên Điền-Chứng Đạo.
08. Đời 39: Ngài Ấn Bính-Tổ Thuận-Phổ Bảo.
09. Đời 40: Ngài Chơn Chứng-Đạo Tâm-Thiện Quả.
10. Đời 40: Ngài Chơn Nhật-Đạo Chiếu-Quang Minh.
11. Đời 41: Ngài Như Truyện-Giải Lệ-Trí Nhãn.
12. Đời 43: Ngài Đồng Mẫn-Thông Niệm-Huệ Tánh.
Từ Chúc Thánh, các đệ tử cũng như các pháp tôn nhiều đời của Ngài đã đem ánh sáng chánh Pháp hoằng truyền khắp mọi nơi. Từ Quảng Nam, ra Thừa Thiên Huế, rồi Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận trở vào phía nam đến các tỉnh miền Nam, miền Tây Nam bộ đều có dấu chân hành hóa của chư Tăng thuộc thiền phái Chúc Thánh. Hiện nay, dòng thiền Chúc Thánh đã truyền xuống đến các chữ Thánh, Thọ và sự ảnh hưởng của dòng thiền này càng ngày càng thêm phát triển và lớn mạnh.
--o0o--
"); } else {